MỞ ĐẦU
Từ ngày 23 – 26 tháng 06 vừa qua, Hội nghị Khoa học Thường niên lần thứ 83 của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) đã diễn ra tại San Diego. Hội nghị đã mang đến nhiều thông tin và bằng chứng y khoa mới trong kiểm soát bệnh nhân đái tháo đường. Trong đó, kết quả của 2 thử nghiệm lâm sàng pha 2, ngẫu nhiên có đối chứng, mù đôi đánh giá hiệu quả giảm cân của retatrutide – một chất chủ vận đồng thời của glucose-dependent insulinotropic polypeptide (GIP), thụ thể glucagon-like peptide-1 (GLP-1) và thụ thể glucagon đã thu hút được nhiều sự chú ý, trở thành tâm điểm nổi bật hàng đầu trong hội nghị.
Bài viết nhằm tóm tắt phiên báo cáo đến bạn đọc.
TÓM TẮT NỘI DUNG BÁO CÁO
Kết quả của 2 thử nghiệm lâm sàng cho thấy retatrutide – một thuốc chủ vận đồng thời GIP, GLP-1 và thụ thể glucagon đã được báo cáo trong hội nghị khoa học lần thứ 83 của ADA. Hiệu quả giảm cân của retatrutide được đánh giá qua 2 thử nghiệm lâm sàng:
- Thử nghiệm lâm sàng được tiến hành trên bệnh nhân béo phì, có nghiên cứu phân nhóm ở bệnh nhân mắc bệnh gan nhiễm mỡ do rượu
- Thử nghiệm lâm sàng được tiến hành trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 [1].
Thử nghiệm về chỉ định điều trị béo phì của retatrutide
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu 2, ngẫu nhiên có đối chứng được tiến hành nhằm đánh giá hiệu lực và tính an toàn của retatrutide ở bệnh nhân béo phì. Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí danh tiếng The New England Journal of Medicine vào tháng 06/2023 [2].
Nghiên cứu được tiến hành trên 338 bệnh nhân béo phì với BMI ≥ 30 hoặc có BMI nằm trong khoảng 27 – 30 mắc kèm một bệnh lý liên quan đến cân nặng, không mắc kèm đái tháo đường. Những bệnh nhân này được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 2:1:1:1:1:2:2 để được điều trị bằng retatrutide đường tiêm dưới da (x 1 lần/tuần) với 6 liều/chế độ liều khác nhau: (i) 1 mg; (ii) liều khởi đầu 2 mg rồi sau đó 4 mg; (iii) 4 mg; (iv) liều khởi đầu 2 mg rồi 8 mg; (v) liều khởi đầu 4 mg rồi 8 mg; (vi) liều khởi đầu 2 mg rồi 12 mg và giả dược trong vòng 48 tuần [2].
Tiêu chí đánh giá chính của nghiên cứu là tỷ lệ cân nặng thay đổi sau 24 tuần so với cân nặng ban đầu. Tiêu chí đánh giá phụ là tỷ lệ cân nặng thay đổi sau 48 tuần so với cân nặng ban đầu và tỷ lệ cân nặng thay đổi ≥ 5%, ≥ 10% hay ≥ 15%. Hồ sơ an toàn của retatrutide cũng được đánh giá [2].
Khi so sánh bình phương tối thiểu của phần trăm cân nặng thay đổi, kết quả cho thấy trong vòng 24 tuần, bệnh nhân ở nhóm điều trị bằng retatrutide liều 1 mg giảm được 7.2% cân nặng, liều 4 mg giảm được 12.9% cân nặng, liều 8 mg giảm được 17.3% cân nặng và liều 12 mg giảm được 17.5% cân nặng. Trong khi đó nhóm giả dược chỉ giảm được 1.6% cân nặng. Trong vòng 48 tuần, nhóm điều trị với retatrutide liều 1 mg giảm được 8.7% cân nặng, liều 4 mg giảm được 17.1% cân nặng, liều 8 mg giảm được 22.8% cân nặng và liều 12 mg giảm được 24.2% cân nặng. Nhóm điều trị với giả dược giảm được 2.1% cân nặng. Như vậy, retatrutide liều cao nhất (liều khởi đầu 2 mg sau đó 12 mg) có hiệu lực giảm cân mạnh nhất trong tất cả các chế độ liều. Tại tuần thứ 48, tỷ lệ người tham gia nghiên cứu giảm được ≥ 5% cân nặng, ≥ 10% cân nặng và ≥ 15% cân nặng lần lượt là 92%, 75% và 60% đối với nhóm liều 4 mg retatrutide; 100%, 91% và 75% ở nhóm liều 8 mg và 100%, 93% và 83% ở nhóm liều 12 mg. Tỷ lệ này ở nhóm giả dược là 27%, 9% và 2% [2].
Biến cố bất lợi phổ biến ở nhóm được điều trị bằng retatrutide bao gồm các triệu chứng trên đường tiêu hóa (phụ thuộc liều), mức độ nhẹ – trung bình đến nặng. Nhóm bệnh nhân được điều trị với liều khởi đầu thấp hơn (khởi đầu với liều 2 mg) gặp các biến cố trên đường tiêu hóa ít nghiêm trọng hơn so với nhóm điều trị khởi đầu với liều cao hơn (4 mg). Tần số tim tăng phụ thuộc liều đạt đỉnh ở tuần 24 và sau đó giảm [2].
Thử nghiệm trên bệnh nhân đái tháo đường của retatrutide
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá hiệu lưc và tính an toàn của retatrutide trong điều trị đái tháo đường trong hơn 36 tuần. Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí The Lancet vào tháng 06/2023. Nghiên cứu bao gồm 281 bệnh nhân mắc đái tháo đường type 2 (tuổi trung bình 56.2, số năm mắc đái tháo đường trung bình 8.1 năm). Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 2:2:2:1:1:1:1:2 vào các nhóm điều trị với retatrutide đường tiêm (x 1 lần/tuần) liều (i) 0.5 mg; (ii) liều khởi đầu 2 mg rồi 4 mg; (iii) 4 mg; (iv) liều khởi đầu 2 mg rồi 8 mg; (v) liều khởi đầu 4 mg rồi 8 mg hoặc (vi) liều khởi đầu 2 mg rồi 12 mg; với dulaglutide liều 1.5 mg hoặc với giả dược [3].
Tiêu chí đánh giá chính bao gồm thay đổi HbA1c ở thời điểm tuần 24 so với HbA1c ban đầu. Tiêu chí đánh giá phụ bao gồm thay đổi HbA1c và cân nặng ở thời điểm tuần 36 so với những thông số ban đầu. Hồ sơ an toàn của retatrutide cũng được đánh giá [3].
Khi so sánh bình phương tối thiểu của phần trăm HbA1c thay đổi, tại tuần thứ 24, HbA1c giảm được 0.43% ở nhóm retatrutide 0.5 mg. Nhóm 4mg (liều khởi đầu 2 mg) giảm 1.39%, nhóm 4 mg giảm 1.30%, nhóm 8 mg (liều khởi đầu 2 mg) giảm 1.99%, nhóm 8 mg (liều khởi đầu 4 mg) giảm 1.88% và nhóm 12 mg (liều khởi đàu 2 mg) giảm 2.02%. Nhóm được điều trị bằng dulaglutide giảm 1.41% và nhóm giả dược giảm 0.01%. Retatrutide giảm HbA1c nhiều hơn có ý nghĩa so với giả dược ở mọi chế độ liều ngoại trừ liều 0.5 mg. So với dulaglutide 1.5 mg, retatrutide giảm HbA1c nhiều hơn có ý nghĩa ở chế độ liều 8 mg (liều khởi đầu 2 mg) và liều 12 mg (liều khởi đầu 2 mg). Kết quả tương tự ở tuần thứ 36. Xét đến hiệu lực thay đổi cân nặng, retatrutide liều 0.5 mg giảm được 3.19% cân nặng, liều 4 mg (liều khởi đầu 2 mg) giảm được 7.92% cân nặng, liều 4 mg giảm 10.37% cân nặng, liều 8 mg (liều khởi đầu 2 mg) giảm 16.81% cân nặng, liều 8 mg (liều khởi đầu 4 mg) giảm 16.34% cân nặng và liều 12 mg (liều khởi đầu 2 mg) giảm 16.94% cân nặng tại tuần thứ 36. Dulaglutide liều 1.5 mg giảm được 2.02% cân nặng và giả dược giảm được 3.00% cân nặng. Retatrutide với liều ≥ 4 mg giảm cân nhiều hơn có ý nghĩa so với cả giả dược và dulaglutide 1.5 mg [3].
Biến cố bất lợi ghi nhận được ở nhóm điều trị với retatrutide bao gồm nôn, tiêu chảy, nôn và táo bón. Không có biến cố hạ huyết áp nghiêm trọng nào được báo cáo trong quá trình theo dõi [3].
Như vậy, sau 36 tuần theo dõi, retatrutide cho thấy khả năng cải thiện có ý nghĩa đường huyết và cân nặng ở bệnh nhân đái tháo đường [3].
BÀN LUẬN
Có thể cho rằng đây là số cân nặng giảm được kỷ lục bằng thuốc chỉ sau gần 1 năm điều trị được ghi nhận [4]. Không những vậy, số lượng bệnh nhân đưa được đường huyết trở về mức bình thường trong nghiên cứu cũng là một con số đáng kinh ngạc [4]. Retatrutide đã mở ra một hy vọng mới trong kiểm soát bệnh nhân đái tháo đường, bệnh nhân béo phì và bệnh nhân mắc đồng thời cả 2 bệnh lý.
Hiệu lực và tính an toàn của retatrutide trong kiểm soát cân nặng, ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ, thoái hóa khớp ở bệnh nhân béo phì và thừa cân sẽ được đánh giá trong thử nghiệm lâm sàng pha 3, ngẫu nhiên có đối chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Press release. American Diabetes Association Highlights Novel Agent Retatrutide which Results in Substantial Weight Reduction in People with Obesity or Type 2 Diabetes During Late Breaking Symposium. American Diabetes Associations. Updated 26 Jun 2023. Accessed date 05 Jun 2023. URL: https://diabetes.org/newsroom/press-releases/2023/american-diabetes-association-highlights-novel-agent-retatrutide-results-substantial-weight-reduction-people-with-obesity-type-2-diabetes-during-late-breaking-symposium
- Jastreboff AM, Kaplan LM, Frías JP, Wu Q, Du Y, Gurbuz S, Coskun T, Haupt A, Milicevic Z, Hartman ML; Retatrutide Phase 2 Obesity Trial Investigators. Triple-Hormone-Receptor Agonist Retatrutide for Obesity – A Phase 2 Trial. N Engl J Med. 2023 Jun 26. doi: 10.1056/NEJMoa2301972.
- Rosenstock J, Frias J, Jastreboff AM, Du Y, Lou J, Gurbuz S, Thomas MK, Hartman ML, Haupt A, Milicevic Z, Coskun T. Retatrutide, a GIP, GLP-1 and glucagon receptor agonist, for people with type 2 diabetes: a randomised, double-blind, placebo and active-controlled, parallel-group, phase 2 trial conducted in the USA. Lancet. 2023 Jun 26:S0140-6736(23)01053-X. doi: 10.1016/S0140-6736(23)01053-X.
- Mitchel L. Zoler. Triple Agonist Retatrutide Hits New Weight-Loss Highs. Medscape. Updated 26 Jun 2023. Accessed date 06 Jun 2023. URL: https://www.medscape.com/viewarticle/993714